Theo sách Nội
Kinh, các bậc chân nhân thời thượng cổ sở
dĩ sống lâu là do “thuận theo trời đất,
nắm lấy âm dương, hô hấp tinh khí, độc
lập thủ thần”. Đó cũng là nguyên tắc
của khí công. Lục tự được coi là bài khí
công duy nhất phối hợp kỹ thuật hô hấp và
sự rung động của âm thanh.
Kỹ thuật dùng âm thanh hoặc âm nhạc
để chữa bệnh hoặc để dẫn
dắt con người nhập vào những trạng thái
tâm lư hoặc tâm linh nhất định đă
được biết đến từ xưa, ở
nhiều dân tộc cũng như nhiều nền văn
hóa khác nhau, trong tôn giáo cũng như trong y học. Theo quan
niệm thiên nhân tương ứng của khí công cổ
đại, mỗi âm thanh hoặc ư niệm đều
tương ứng với một loại khí nhất
định trong cơ thể cũng như ngoài vũ
trụ. Do đó, ta có thể vận dụng âm
hưởng với cường độ và
trường độ thích hợp để điều
chỉnh những rối loạn bệnh lư hoặc nâng
cao nội khí trong cơ thể.
Lục tự khí công (c̣n gọi là Lục tự quyết)
là một phương pháp khí công đặc thù, đă
ứng dụng nguyên tắc trên vào việc chữa
bệnh dưỡng sinh. Bí quyết của phương
pháp là hít vào bằng mũi, thở ra bằng miệng. Khi
thở ra kết hợp với niệm tự quyết.
Lời quyết không phát ra thành tiếng nhưng tâm
vẫn ghi nhận được. Đây là một
loại tĩnh công. Công pháp không cần bất cứ
một động tác hoặc chiêu thức ǵ. Cách thở
cũng đơn giản: thở 2 th́, không nín hơi. Tuy
nhiên, sự kết hợp đặc biệt giữa hô
hấp và tự quyết có thể tạo ra những xung
lực có hiệu ứng khai mở và thanh tẩy rất
kỳ diệu.
Tương truyền, Lục tự khí công do
Xích Tùng Tử, một đạo trưởng tu luyện
pháp trường sinh ở núi Hoa Sơn nghiên cứu,
ứng dụng và truyền bá cho đời sau. Lục
tự quyết gồm 6 chữ: Suy, Hô, Hư, Ha, Hí, Hu.
Mỗi chữ ứng với một loại khí hoặc
tạng, phủ nhất định trong cơ thể con
người. Chữ Suy với thận, bàng quang thuộc
Thủy khí.
Chữ Hô ứng với tỳ ị thuộc Thổ khí.
Chữ Hư ứng với can đởm thuộc
Mộc khí. Chữ Ha ứng với tâm tiểu
trường thuộc Hỏa khí.
Chữ Hí ứng với phế, đại trường
thuộc Kim khí. Chữ Hu ứng với tâm bào, tâm tiêu
thuộc Hỏa khí.
Trước
hết, cần tắm rửa sạch sẽ, quần áo
nới lỏng, chọn nơi yên tĩnh, thoáng mát, không có
ruồi muỗi. Ngồi xếp bằng thông thường,
ngồi bán già, hoặc ngồi trên ghế, hai chân chạm
đất. Hai ḷng bàn tay đặt trên hai đùi. Eo
hơi thót lại. Vai buông lỏng. Cằm hơi thu vào.
Lưng thẳng. Hai mắt khép hờ.
Hít vào bằng mũi. Hít vào xuống bụng dưới.
Chỉ cần biết trong ư niệm rằng ta đang hít
vào một luồng thiên khí từ đỉnh đầu
đi thẳng xuống bụng dưới. Không cần
quan tâm khí đi như thế nào, cũng không cần
cố hít vào quá sâu.
Thở ra bằng miệng. Trong khi thở ra, liên tục
phát ra một tự quyết. Ở mỗi hơi thở,
tự quyết chỉ phát ra một lần và ngân vang cho
đến cuối hơi. Thở ra chậm, nhẹ và
đều đồng thời từ từ ép sát bụng
vào. Th́ thở ra dài hơn th́ hít vào. Trong lúc thở ra, môi
và lưỡi ở vị trí thích hợp để phát ra
âm quyết đă chọn; nhưng chỉ phát bằng ư
niệm mà không phát ra thành tiếng sao cho chỉ có sự
rung động trong cổ họng và nghe được
rơ ràng trong tâm mà vẫn không phát âm ra ngoài. Như vậy,
sẽ chỉ có hơi thở thoát ra miệng. Âm quyết
chỉ hiện diện trong tư tưởng của
người tập, người ngoài không nghe thấy.
Đến cuối hơi thở, miệng lại
ngậm lại, đầu lưỡi chạm
nướu răng trên và tiếp tục hít xuống
bụng dưới để bắt đầu chu
kỳ thở tiếp theo. Hơi thở này kế
tiếp hơi thở kia, khoan thai, không thô, không gấp.
Đối với người b́nh thường, có thể
tập mỗi âm khoảng 24 hơi thở theo một
thứ tự nhất định từ âm này đến
âm kia. Mỗi ngày có thể tập 1 hoặc 2 lần lúc
bụng trống. Trường hợp chữa bệnh có
thể tập trung làm nhiều lần hơn khi
đến những âm có liên quan đến những
rối loạn bệnh lư trong cơ thể.
Tập trung sức chú ư vào âm quyết trong thời gian
thở ra là khâu quan trọng nhất trong Lục tự
quyết. Do đó, không nên nhẩm đếm hơi
thở để khỏi phân tán tư tưởng. Có
thể sử dụng cách lần chuỗi bằng tay
với những chuỗi 24 hạt (hoặc hơn
nữa) để kiểm soát được số
hơi thở ở mỗi âm quyết.
Sự
rung động của những âm tiết trong quá tŕnh
thực hành Lục tự quyết có công năng kích
hoạt để khai mở một số đại
huyệt dọc theo hai mạch Nhâm và Đốc, giúp
tăng cường sự trao đổi khí giữa
nội khí và thiên địa khí và gia tăng chân khí.
Lục tự khí công là một phương pháp hô hấp
tích cực. Thở sâu xuống bụng dưới giúp
phát sinh nội khí ở đan điền. Kéo dài hơi
thở ra giúp gia tăng sự trao đổi chất
ở các mô và các tế bào. Ép sát bụng dưới có
thể tăng cường chức năng xoa bóp nội
tạng của cơ hoành, kích thích tiêu hóa và sự lưu
thông khí huyết.
Đối với hệ thần kinh, việc tập trung
tư tưởng trong quá tŕnh thực hành Lục tự
quyết, đặc biệt th́ thở ra chậm và dài, có
tác dụng điều ḥa thần kinh giao cảm, giúp
giải tỏa những triệu chứng bệnh lư do
căng thẳng tâm lư gây ra.
Do quá tŕnh thở khí ra, Lục tự khí công
được xem là một loại công phu thiên về
tả thực và khử trọc. Trọc khí không chỉ
thoát ra bên ngoài theo hơi thở ra ở miệng mà c̣n qua
các huyệt vị và kinh lạc tương ứng
với âm quyết và cả tay chân. Do đó, khi thực
hành để chữa những bệnh như u,
bướu, xơ hóa..., người tập không nên
ngồi kiết già để trọc khí dễ dàng thông
thoát ra 2 chân.
Tác dụng khử trọc hay thanh tẩy của Lục
tự khí công không phải chỉ bắt đầu
từ kinh lạc hoặc phủ, tạng mà phát triển
ngay từ những trung tâm năng lượng ở
cột sống nên c̣n gọi là tẩy tủy.
Điểm đặc biệt của Lục tự khí
công là hoạt hóa hai đường kinh, một lên
một xuống ở hai bên của cột sống, qua
đó gia tăng khả năng thanh hóa tủy sống.
Sau một thời gian thực hành, những
người có khí cảm tốt có thể nhận
biết được một luồng khí từ
xương cùng đi lên dọc theo rănh bên trái của
cột sống. Khi đến đỉnh đầu,
luồng khí này sẽ theo rănh bên phải cột sống
đi xuống xương cùng. Đến xương
cùng, luồng khí này sẽ tự động kích hoạt
chơn hỏa đi lên mạch Đốc. Hiện
tượng này trùng khớp với mô tả của
những đạo sư yoga về 3 nguồn năng
lượng chính dọc theo cột sống: luồng Ida
mang năng lượng âm ở rănh bên trái, luồng Pingala
mang năng lượng dương ở rănh bên phải
và luồng hỏa xà Kundalini theo đường Soushoumna
ở giữa cột sống đi lên. Đối với
Lục tự khí công, đây là một quá tŕnh phát triển
dần dà và tự nhiên, người tập không nên tùy
tiện vận hành.
Khi
thực hành Lục tự quyết, sau quá tŕnh xả
trọc khí sẽ là quá tŕnh phản hồi tự nhiên, thu
thanh khí
thông qua chính những huyệt vị, kinh lạc mà
trược khí đă được thải, ra. Do đó,
Lục tự khí công nên phối hợp với tĩnh
tọa để có thể tận dụng và phát huy quá
tŕnh phản hồi này trong việc thu thiên địa khí
để tăng cường nội khí. Tĩnh tọa
liền sau khi thực hành Lục tự quyết. Thời
gian tĩnh tọa không giới hạn nhưng tối
thiểu nên bằng với thời gian thực hành
Lục tự quyết.
Tĩnh tọa được đề cập ở
đây là phương pháp ngồi thiền tự nhiên,
không cần vận khí, chỉ cần đạt
đến t́nh trạng thư giăn và nhập tĩnh.
Nhập tĩnh là tiến đến quá tŕnh ḥa hợp mà
người xưa gọi là “thiên nhân hợp nhất” . Về mặt chữa bệnh, ḥa
hợp là sự cân bằng giữa âm và dương và
sự hài ḥa giữa ngũ tạng, lục phủ.
Đây cũng là quá tŕnh tự điều chỉnh,
tự hồi phục của hệ thần kinh trung
ương thông qua sự điều ḥa của thần
kinh giao cảm và cơ chế tương tác giữa
thần kinh, thể dịch và nội tạng. Do đó
nếu phối hợp với ngồi thiền,
người tập sẽ không lo tập sai thứ tự
hoặc sự sai biệt nhiều ít giữa các âm
quyết.
Một trong những thứ tự để thực hành
Lục tự quyết là thực hành theo thứ tự
tương sinh. Mộc sinh Hỏa. Hỏa sinh Thổ.
Thổ sinh Kim. Kim sinh Thủy. Thứ tự đó là
Hư, Ha, Ho, Hí, Suy, Hu.
(Theo Sức
Khỏe & Đời Sống)
|